Bệnh Rubella - Nguy hiểm cho phụ nữ mang thai  như thế nào?

Bệnh Rubella còn gọi là bệnh sởi Đức. Rubella có đặc điểm là hay gây thành dịch và phát ban giống sởi. Mặc dù là bệnh lành tính, nhưng lại nguy hiểm cho phụ nữ có thai nhất là vào 3 tháng đầu vì gây ra các dị tật bẩm sinh cho thai nhi.
Virut Rubella lây qua đường hô hấp, hay xảy ra dịch vào mùa xuân và đầu mùa hạ. Bệnh ít gặp ở trẻ dưới 5 tuổi nhưng lại hay gặp ở lứa tuổi thanh thiếu niên.

Những biểu hiện của bệnh

Sau khi virut vào cơ thể độ 2-3 tuần lễ, bệnh nhân hoàn toàn bình thường. Tiếp theo có 3 triệu chứng chính là sốt, phát ban và nổi hạch.

Sốt: Đau đầu, mệt mỏi thường xuất hiện 1- 4 ngày, sau khi phát ban thì sốt giảm. Sốt nhẹ 38,5oC.

Nổi hạch: Ở vùng xương chẩm, khuỷu tay, bẹn, cổ, sờ hơi đau. Hạch thường nổi trước phát ban, tồn tại vài ngày sau khi ban bay hết.

Phát ban: Ban mọc lúc đầu ở trên đầu, mặt, rồi mọc khắp toàn thân, thường không tuần tự như sởi. Nốt ban có hình tròn hay bầu dục, đường kính chừng khoảng 1-2mm, các nốt có thể hợp thành từng mảng hay đứng riêng rẽ. Trong vòng 24 giờ ban mọc khắp người, chỉ sau 2-3 ngày là bay hết. Cần phân biệt với ban của sởi. Ban sởi sờ mịn, mọc thứ tự từ trên đầu, mặt xuống, sau khi bay để lại các vảy như phấn rôm, trên da có các vằn màu sẫm.

Đau khớp: hoặc đau khắp mình mẩy, hay gặp ở phụ nữ. Các khớp ngón tay, cổ tay, gối, cổ chân đau trong khi phát ban, sau đó không để lại di chứng.

Các thể lâm sàng

Rubella bẩm sinh: Virut từ máu mẹ qua nhau thai. Trẻ sơ sinh khi đẻ ra đã có ban, hoặc trong vòng 48 giờ sau sinh. Bệnh nhi có gan to, lách to, vàng da.

Thể xuất huyết do giảm tiểu cầu: Chiếm tỷ lệ 1/3.000 ca. Xuất hiện xuất huyết vào 1-2 tuần sau khi phát ban. Có thể chảy máu cam, xuất huyết tiêu hóa, trẻ sơ sinh có thể chảy máu rốn.

Thường người mẹ không có triệu chứng, điều đáng quan tâm nhất là những dị tật của thai nhi trong bụng mẹ.

Trong 3 tháng đầu: 70%-100% trẻ đẻ ra bị Rubella bẩm sinh và 25% trẻ bị dị tật bẩm sinh ở các cơ quan tim, mắt, não.

Sau 3 tháng: Nếu mẹ có thai được 13-16 tuần, thì trẻ bị Rubella bẩm sinh với tỷ lệ 17%. Khi thai được 17- 20 tuần, thì tỷ lệ 5%. Và khi thai hơn 20 tuần, tỷ lệ đó bằng 0%.

Các biến chứng dị tật của thai nhi: Khi bà mẹ mang thai 3 tháng đầu bị bệnh Rubella thì dễ bị sảy thai hoặc thai chết lưu trong tử cung, nếu đẻ được thì thai thiếu cân, chậm lớn, chậm mọc răng và kèm theo các dị tật bẩm sinh như đục nhân mắt (một hoặc hai bên), đục giác mạc, tim tiên thiên lỗ thông vách tim, còn ống động mạch, hẹp eo động mạch phổi, trẻ còn có thể bị câm, điếc, chậm phát triển trí tuệ.

Điều trị: Cần điều trị triệu chứng như giảm đau, hạ nhiệt. Giữ ấm, tránh gió, kiêng nước trong thời gian phát ban, đề phòng bội nhiễm viêm đường hô hấp. Ăn uống đủ chất dinh dưỡng để nâng cao sức đề kháng. Tăng cường ăn hoa quả như cam, chanh và các vitamin.

Phòng bệnh: Hai biện pháp chính của phòng bệnh là cách ly và tiêm phòng bằng vaccin, nên tiêm phòng Rubella rộng rãi cho trẻ từ 12-24 tháng tuổi. Đối với phụ nữ đang ở tuổi sinh đẻ. Hãy thử máu để biết chắc là cơ thể đã miễn dịch đối với virút rubella trước khi mang thai hay chưa. Nếu không, hãy tiêm phòng trước khi mang thai, khi tiêm phòng, phải sử dụng các biện pháp tránh thai hữu hiệu trong 3 tháng liên tục, gồm 1 tháng trước khi chủng và 2 tháng sau khi chủng.

benh rubella

Sau nhiễm rubella, khi nào nên có thai?

Rubella được chẩn đoán bằng huyết thanh học. Kháng thể IgG và IgM xuất hiện 2-4 ngày sau khi xuất hiện ban, đạt nồng độ tối đa sau đó hai tuần. IgM giảm dần về âm tính trong vòng 1-2 tháng nhưng tồn tại kéo dài ở một số bệnh nhân 3-5%. Sự chuyển trạng thái IgG từ âm sang dương là bằng chứng chắc chắn của nhiễm rubella.

IgM rubella dương tính được dùng thường qui trong chẩn đoán nhiễm rubella cấp tính, nhưng có thể là IgM của virus khác như parvovirut B19. Tính đặc hiệu đối với rubella của IgM cần xác định lại tại phòng xét nghiệm chuyên khoa sâu để tránh chẩn đoán dương tính giả.

Như vậy, khi có kết quả IgM âm tính hẳn  khoảng 1-2 tháng  mói để có thai. Bởi vì, tuy khả năng lây cho thai  thấp nhưng để tầm soát xem thai có bị ảnh hưởng hay không rất khó, siêu âm và các kỹ thuật chẩn đoán tiền sản hiện nay cũng khó xác định được các dị dạng tim, các tổn thương mắt, và nhất là điếc thì không thể xác định. Kỹ thuật chọc máu cuống rốn cũng khó thực hiện và có nhiều tai biến.

Bs. Chuyên khoa Nguyễn Thị Song Hà

(Quay lại trang trước)   

Placeholder image